Việt Nam, Algeria, Palestine Truyền ngọn đuốc đấu tranh chống thực dân

Kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và cuộc cách mạng Algeria làm nổi bật ảnh hưởng sâu sắc của hai sự kiện này đối với quá trình phi thực dân hóa toàn cầu. Bài đọc này khám phá những tác động của hai sự kiện trên đối với cuộc kháng chiến của người Palestine, làm sáng tỏ ý nghĩa của hai cuộc đấu tranh chống lại áp bức của thực dân và là nguồn cảm hứng bất tận đối với thế giới.

Autores

Longread de

Illustration by Fourate Chahal El Rekaby

Illustration by Fourate Chahal El Rekaby

Chủ nghĩa thực dân phủ nhận lịch sử của chính họ, trong khi Phong trào giải phóng dân tộc tái tạo lại nó

“Giải phóng dân tộc, phục hưng dân tộc, khôi phục quốc gia cho nhân dân, khối thịnh vượng chung: dù có gọi bằng tên gì hay đưa ra những công thức mới nào đi nữa thì quá trình giải phóng dân tộc vẫn luôn là một hiện tượng bạo lực”  Frantz Fanon, 1961 (Fanon 1967)

Cuộc đấu tranh giành độc lập của Algeria chống lại thực dân Pháp là một trong những cuộc cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc truyền cảm hứng nhất của thế kỷ XX. Nó là một phần của làn sóng giải phóng dân tộc bắt đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai tại Ấn Độ, Trung Quốc, Cuba, Việt Nam và nhiều quốc gia ở châu Phi. Cuộc đấu tranh này khắc sâu tinh thần của Hội nghị Bandung và kỷ nguyên “thức tỉnh của phương Nam”, một phương Nam đã bị áp bức suốt nhiều thập kỷ (và thậm chí là hơn một thế kỷ) dưới sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản dưới nhiều hình thức khác nhau, từ các chế độ bảo hộ đến các thuộc địa thực dân (như trường hợp của Algeria).

Nhìn lại, sự chiếm đóng của Pháp đối với Algeria có thể được coi là đặc biệt, vì Algeria là quốc gia nói tiếng Ả Rập đầu tiên bị phương Tây thôn tính và là một trong những quốc gia đầu tiên ở châu Phi bị một đế quốc phương Tây xâm chiếm, từ lâu trước khi Hội nghị Berlin năm 1884 diễn ra, khi các đế quốc châu Âu khác nhau (Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha) gặp nhau để phân chia lục địa châu Phi.

Pháp xâm lược Algeria vào tháng 6 năm 1830. Quân đội Pháp đã dành 50 năm tiếp theo để đàn áp một cuộc nổi dậy, trong đó có 15 năm chống lại nhà lãnh đạo kháng chiến tài giỏi, dũng cảm và kiên cường Abd-El-Kader. Cuộc xâm lược của Pháp không hề dừng lại, đặc biệt dưới sự chỉ huy của Thống chế Bugeaud tàn bạo, người đã áp dụng chính sách tiêu thổ (Fisk 2005), thực hiện những tội ác từ việc di dời dân cư, chiếm đoạt đất đai, tàn sát cho đến những cuộc “tấn công bằng hơi ngạt” đáng sợ, tiêu diệt tất cả các bộ tộc bằng phương cách dã man này. 

Cùng với chiến dịch “bình định” của Thống chế Bugeaud, Pháp đã tích cực khuyến khích thực dân hóa Algeria bằng chính người dân của mình. Trong một tuyên bố trước Quốc hội vào năm 1840, Bugeaud nói: “Ở bất cứ đâu có nước ngọt và đất đai màu mỡ, người ta phải định cư tại đó, mà không cần quan tâm những vùng đất đó thuộc về ai” (Đây chính xác là cách tiếp cận mà người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái áp dụng ở Palestine một thế kỷ sau đó). Đến năm 1841, số lượng những người thực dân/người định cư đã lên tới 37.374 người, trong khi dân số bản địa là khoảng 3 triệu người bản địa (Horne 2006). Đến năm 1926, số lượng người định cư đã lên tới khoảng 833.000 người, chiếm 15% dân số, và tăng gần 1 triệu người vào năm 1954.

Thực dân hóa liên quan đến việc tước đoạt yếu tố sản xuất cơ bản, đất đai, từ nông dân bản địa và phân phối lại cho những người định cư, phá hủy nền tảng của nền kinh tế tự cung tự cấp của nông dân (Lacheraf 1965). Các lực lượng quần chúng ở nông thôn đã đấu tranh chống lại sự xâm lược của quân đội thực dân cho đến năm 1884 thì bị dập tắt hoàn toàn, sau khi các cuộc nổi dậy chính trị-nông nghiệp đã lan rộng trên ba phần tư lãnh thổ và lực lượng nòng cốt cốt của cuộc kháng chiến nông thôn Algeria chống lại chủ nghĩa thực dân đã bị đập tan vào năm 1871. Cuộc nổi dậy lịch sử của nông dân này là phản ứng trước một loạt các biện pháp tịch thu thảm khốc trong những năm 1860, khiến phần lớn người dân nông thôn Algeria phẫn nộ và khiến họ lo sợ cho tính mạng và sinh kế của mình. Tình hình của họ trở nên tồi tệ hơn do hạn hán, mất mùa, nạn đói, nạn châu chấu và dịch bệnh, khiến hơn 500.000 người chết (khoảng 1/5 dân số). Trong giai đoạn từ 1830 đến 1870, ước tính có vài triệu người Algeria đã tử vong (Bennoune 1988, Davis 2007 và Lacheraf 1965).

Nhà Marxist Ai Cập Samir Amin đã mô tả cách mà người dân nông thôn Algeria  biến cuộc xâm lược thực dân thành một cuộc chiến kéo dài và tàn khốc:

“Sự sụp đổ của chính quyền nhiếp chính và cuộc chiến tranh diệt chủng do quân đội Pháp tiến hành đã tạo ra những đặc điểm đặc biệt nhất định trong giai đoạn đầu này (1830 - 1884) mà không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác… khi đối mặt với sức mạnh quân sự, giai cấp thống trị thành thị đã rơi vào tình trạng hỗn loạn hoàn toàn và không nghĩ ra phương án nào khác ngoài việc bỏ chạy… còn đối với nông dân, việc bỏ chạy là không thể. Đối mặt với nguy cơ bị tiêu diệt, họ đã biến vùng nông thôn Algeria thành chiến trường cho một cuộc chiến tranh kéo dài 50 năm, cướp đi hàng triệu sinh mạng” (Amin 1970). 

Chế độ thực dân Pháp ở Algeria kéo dài 132 năm (so với 75 năm chế độ thực dân ở Tunisia và 44 năm ở Maroc), với mức độ ảnh hưởng sâu sắc và thời gian kéo dài chưa từng có ở cả Châu Á và Châu Phi. Năm 1881, Algeria lần đầu tiên được quản lý như một phần không thể tách rời của Pháp. Khi quyền cai trị dân sự được mở rộng đến đất nước này, người Hồi giáo Algeria bị buộc phải chấp nhận là công dân hạng hai. Sự loại trừ người Hồi giáo được thể hiện ở tất cả các cấp độ đại diện chính trị, khi phân biệt đối xử với người Hồi giáo được đưa vào hệ thống bầu cử và địa vị thấp kém của người Hồi giáo được ghi nhận trong luật pháp theo Bộ luật bản địa đáng ghê tởm Code de l’Indigénat năm 1881 (McDougall 2006).

Sau khi Pháp thành công trong việc đàn áp tàn bạo cuộc nổi dậy chống thực dân của Algeria, trong đó cuộc nổi dậy cuối cùng diễn ra vào những năm 1870 và 1880, phải mất hơn nửa thế kỷ để phong trào kháng chiến Algeria mới tiếp tục bùng lên dưới hình thức chủ nghĩa dân tộc Algeria hiện đại.

Ngày 8 tháng 5 năm 1945: “Ngày Chiến thắng ở Châu Âu” và các vụ thảm sát ở Algeria

“Chính tại Setif, tôi lần đầu tiên cảm thấy bị xúc phạm nhân tính bởi những cảnh tượng tàn bạo nhất. Khi đó tôi mới mười sáu tuổi. Tôi cảm thấy bị sốc và không bao giờ quên cuộc tàn sát vô nhân đạo gây ra cái chết của hàng ngàn người Hồi giáo. Từ khoảnh khắc đó, chủ nghĩa dân tộc trong tôi đã hình thành rõ nét” Nhà văn, nhà thơ Algeria Kateb Yacine (trích trong Horne, 2006).

Vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, khắp châu Âu tràn ngập niềm vui khi tin tức về sự đầu hàng của Đức Quốc xã lan rộng. Pháp mừng rỡ vì thoát khỏi 5 năm bị chiếm đóng. Cùng thời điểm đó, tại Algieria, một chuỗi sự kiện bắt đầu diễn ra, dẫn đến cuộc thảm sát của thực dân đối với hàng nghìn người Hồi giáo Algeria trong suốt hai tháng sau đó.

Vào Ngày Chiến thắng ở Châu Âu, trong khi người châu Âu ăn mừng, người Algeria đã diễu hành tại Sétif để đòi độc lập và chấm dứt chế độ thực dân, giương cao biểu ngữ với khẩu hiệu “Vì sự giải phóng của người dân, Algeria tự do và độc lập muôn năm!”. Họ cũng lần đầu tiên giương cao lá cờ, sau này đã trở thành biểu tượng cho lá cờ của phong trào giải phóng Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algeria. Chính quyền thực dân Pháp đã đàn áp dữ dội cuộc diễu hành, gây ra cuộc nổi dậy dẫn đến cái chết của 103 người châu Âu.

Sự trả thù của thực dân đối với những vụ giết người này thật tàn bạo. Quân đội Pháp (không quân, hải quân và lục quân) đã ném bom nhiều khu vực và thiêu rụi, san phẳng hàng loạt làng mạc ở Sétif, Guelma và Kherrata. Trong suốt hai tháng, lực lượng hiến binh và quân đội Pháp, cùng những người định cư báo thù, đã tàn sát hàng chục nghìn người Hồi giáo Algeria, với con số ước tính lên tới 45.000 người.

Những tương đồng giữa các vụ thảm sát ở Setif, Guelma và Kherrata và chiến dịch Al-Aqsa Flood ngày 7 tháng 10 năm 2023 của lực lượng kháng chiến Palestine chống lại Israel, cùng với cuộc tàn sát diệt chủng tàn bạo tiếp theo, rõ ràng đến mức không thể bỏ qua. Trong cả hai trường hợp, mọi hình thức kháng cự, dù hòa bình hay bạo lực, đều bị đàn áp triệt để, và khát vọng tự quyết đã bị nghiền nát dưới sức mạnh tàn bạo vượt trội. 

Vào thời điểm đó (năm 1945), khi cố gắng giải thích “sự man rợ” của thực dân hóa và biện minh cho sự đàn áp đẫm máu của Pháp, một nhà phân tích đã viết: “Lời kêu gọi bạo lực dấy lên từ những ngọn núi một loại ác thần, một Caliban Berber hoang dã và tàn bạo, những hành động của hắn chỉ có thể bị ngăn chặn bởi một lực lượng mạnh hơn hắn. Đây là lời giải thích về mặt lịch sử và xã hội cho những sự kiện xảy ra ở Sétif vào đúng ngày chiến thắng được ăn mừng (ở Châu Âu)” (Gresh 2023). Chính cái lối tư duy thực dân tối cao, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, bài phương Đông và chủ nghĩa bản chất để lý giải tại sao những người bị áp bức và bị đô hộ lại nổi dậy vẫn còn tồn tại đến ngày nay: các cuộc tấn công của Palestine vào ngày 7 tháng 10 thường bị quy cho tội ác thuần túy, sự tàn bạo phi lý và sự man rợ vượt thời gian của những kẻ khủng bố thời Trung cổ và hạ đẳng, tách biệt hoàn toàn với bối cảnh chính trị của hơn 75 năm thực dân định cư, phân biệt chủng tộc và chiếm đóng. 

Các vụ thảm sát diễn ra sau các cuộc biểu tình ngày 8 tháng 5 năm 1945 đã có những tác động đáng kể đến phong trào dân tộc chủ nghĩa Algeria. Đối với thế hệ chiến binh trẻ, cuộc chiến tranh Algeria đã bắt đầu và việc chuẩn bị cho cuộc đấu tranh vũ trang không thể trì hoãn. Hầu hết các nhà sử học đều đồng ý rằng các vụ thảm sát năm 1945 đã gây chấn động, ảnh hưởng đến tất cả người Hồi giáo Algeria sống sót qua giai đoạn đó. Hơn nữa, mỗi nhà dân tộc chủ nghĩa Algeria nổi bật trong Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algeria (FLN) đều tìm thấy quyết tâm cách mạng của mình từ tháng 5 năm 1945. Sẽ không có gì đáng ngạc nhiên nếu các thế hệ cách mạng của Palestine và Ả Rập trong tương lai (với mọi khuynh hướng chính trị) tìm thấy cam kết đấu tranh giải phóng dân tộc của mình từ cuộc diệt chủng xảy ra sau các cuộc tấn công ngày 7 tháng 10 và sự kháng cự anh dũng ở Gaza, điều vẫn tiếp diễn cho đến thời điểm bài viết này ra đời.

Ahmed Ben Bella, một lãnh đạo của FLN và là người đứng đầu nhà nướcAlgeria từ năm 1962 đến 1965, đã từng là một hạ sĩ quan được trao tặng nhiều huân chương trong Trung đoàn 7 của Algerian Tirailleurs, một đơn vị nổi bật trong cuộc chiến tại Châu Âu. Tuy nhiên, chính những sự kiện năm 1945 đã dẫn ông đến con đường cách mạng. Sau này ông đã viết: “Những nỗi kinh hoàng ở khu vực Constantine vào tháng 5 năm 1945 đã thuyết phục tôi về con đường duy nhất: Algeria phải thuộc về người Algeria”. Tương tự, đối với Mohammed Boudiaf, một lãnh đạo cách mạng khác của FLN và cũng là người sau này trở thành người đứng đầu nhà nước, các vụ thảm sát thực dân năm 1945 đã khiến ông từ chối con đường chính trị qua bầu cử và bị đồng hóa, mà lựa chọn con đường kháng chiến vũ trang và hành động trực tiếp như cách duy nhất để được giải phóng (Evans & Phillips 2007). 

Những sự kiện chấn động năm 1945 là những phát súng đầu tiên trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Algeria.

Chiến thắng của Việt Nam là nguồn cảm hứng cho Algeria

“Hành động của chúng tôi nhằm đưa cuộc chiến đến với họ, để cả thế giới biết rằng nhân dân Algeria đang tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng chống lại những kẻ chiếm đóng châu Âu” — Djamila Bouhiredz

Cuộc đấu tranh giành độc lập của Algeria không thể tách rời bối cảnh phi thực dân hóa toàn cầu. Năm 1945, Liên đoàn Ả Rập được thành lập với mục tiêu thống nhất các quốc gia Ả Rập. Năm 1947, Ấn Độ giành độc lập từ Anh. Năm 1949, cách mạng Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông đánh bại Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch, dẫn đến sự thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 1955, chủ nghĩa dân tộc Ả Rập dưới sự dẫn dắt của Nasser nổi lên mạnh mẽ, cùng với việc tổ chức Hội nghị Bandung tại Indonesia, nơi 29 quốc gia không liên kết từ châu Phi và châu Á cùng lên tiếng chống lại chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thực dân mới trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh. 

Các lãnh đạo FLN không hề ảo tưởng về mức độ thử thách mà họ sẽ phải đối mặt, nhưng niềm tin của họ đã được củng cố bởi thất bại nhục nhã của Pháp ở Đông Dương vào tháng 5 năm 1954. Như Frantz Fanon đã giải thích, chiến thắng lẫy lừng của nhân dân Việt Nam tại Điện Biên Phủ không chỉ là chiến thắng của nhân dân Việt Nam: “Kể từ tháng 7 năm 1954, câu hỏi mà các dân tộc bị đô hộ đã đặt ra là phải làm gì để tạo ra một Điện Biên Phủ khác? Làm sao chúng ta đạt được điều đó?” (Fanon 1967). 

Fanon vô cùng ấn tượng trước chiến thắng của người Việt Nam tại Điện Biên Phủ. Theo ông, chiến thắng của người Việt Nam trước người Pháp tại thung lũng xa xôi ở Đông Nam Á đã chứng minh rằng các dân tộc bị đô hộ có khả năng tạo ra một cuộc cách mạng đủ sức ép buộc những kẻ đô hộ phải chấm dứt chế độ thực dân. Tin tức về chiến thắng của người Việt nhanh chóng vang dội khắp đế quốc Pháp, phá vỡ huyền thoại về sự bất khả chiến bại của những kẻ đô hộ và gây ra những vết nứt trong nền móng đế quốc. Tầm quan trọng của Điện Biên Phủ và tác động của nó đối với tâm lý của những người bị đô hộ khó có thể bị cường điệu hóa. Benyoucef Ben Khedda, Tổng thống Chính phủ lâm thời Cộng hòa Algeria, nhớ lại: “Vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân đội của Hồ Chí Minh đã giáng thảm bại nhục nhã cho quân đoàn viễn chinh Pháp tại Điện Biên Phủ. Thất bại này của Pháp đã trở thành chất xúc tác mạnh mẽ đối với tất cả những ai nghĩ rằng một cuộc nổi dậy trong ngắn hạn giờ đây là phương thuốc duy nhất, là chiến lược khả thi nhất… Hành động trực tiếp đã trở thành ưu tiên hàng đầu, vượt lên trên mọi tính toán khác và trở thành ưu tiên của các ưu tiên..,”(Ben Khedda 1989).

Ferhat Abbas, người trở thành Tổng thống lâm thời đầu tiên của nước Cộng hòa Algérie mới giành được độc lập, đã mô tả chiến thắng của người Việt tại Điện Biên Phủ như một sự kiện làm thay đổi thời đại, coi đó là sự kiện quan trọng không kém gì chiến thắng của quân đội cách mạng Pháp trước quân Phổ trong trận chiến lịch sử Valmy năm 1792:

“Điện Biên Phủ không chỉ là một chiến thắng quân sự. Trận chiến này mang ý nghĩa biểu tượng. Nó là “trận Valmy” của các dân tộc bị đô hộ. Nó là lời khẳng định của châu Á và châu Phi đối với châu Âu, là sự xác nhận về quyền con người phổ quát. Tại Điện Biên Phủ, Pháp đã mất đi nguồn “hợp pháp hóa” duy nhất mà họ dựa vào, đó là quyền của kẻ mạnh [để cai trị kẻ yếu].” (Abbas, 1962)

Một số người đã so sánh trận Điện Biên Phủ là trận Stalingrad của quá trình phi thực dân hóa (Meaney 2024).

Illustration by Fourate Chahal El Rekaby

Illustration by Fourate Chahal El Rekaby

Đế quốc cố giữ tuyến phòng thủ và tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc bị đô hộ

‘It“Người Đông Dương không nổi dậy bởi vì họ đã khám phá ra văn hóa riêng của mình mà “đơn giản là”, họ không thể chịu đựng được nữa”– Frantz Fanon (Fanon 1967).

Sau 70 năm, thật khó để hình dung ảnh hưởng của cuộc chiến Đông Dương đầu tiên, đặc biệt là trận Điện Biên Phủ, đối với thế giới thuộc địa, đặc biệt là các thuộc địa của Pháp từ Algeria đến Senegal và từ Maroc đến Madagascar. Một cường quốc thực dân đã bị đánh bại. Một quân đội chính quy đã bị đánh bại thảm bại!

Vào những năm 1940, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Pháp bị Đức Quốc xã xâm lược và chiếm đóng, hàng chục ngàn người Algeria, Maroc, Senegal, Việt Nam và nhiều quốc gia khác đã dũng cảm tham gia cuộc chiến giải phóng cho Pháp, với hy vọng rằng nó sẽ dẫn đến sự giải phóng của chính họ. Nhưng khi Pháp phục hồi từ đống đổ nát, nó bắt đầu tái thiết lại đế quốc tan vỡ của mình với tất cả sự hào nhoáng của chế độ thực dân. Bất chấp các cuộc đàm phán tại Paris giữa Jean Sainteny và Hồ Chí Minh để tìm ra một thỏa thuận về vấn đề Việt Nam sau chiến tranh, và bất chấp chiến thắng của phe cánh tả, bao gồm cả những người Cộng sản, trong cuộc bầu cử tháng 11 năm 1946 của Pháp, chính phủ Pháp vẫn quyết định tái chiếm Việt Nam. Cho dù được lãnh đạo bởi phe cánh hữu, trung dung hay cánh tả, hoặc bởi các lực lượng tôn giáo hay thế tục, và từ một nền cộng hòa này sang một nền cộng hòa khác, Pháp vẫn tiếp tục bám víu vào đế quốc của mình, từ Điện Biên Phủ đến Kasbah, Algiers (Delanoë 2002). 

Sau khi chiến tranh nổ ra vào tháng 12 năm 1946, từ năm 1947 đến năm 1954, hàng chục nghìn người Bắc Phi đã sang Đông Dương để chiến đấu cho Pháp (con số cuối cùng lên tới 123.000 người), vào lúc đất nước của họ đang trải qua những biến động đầu tiên trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Khi đến Việt Nam, hàng trăm người trong số họ đã đào ngũ và gia nhập Việt Minh. Khi hành động như vậy, họ đã đáp lại lời kêu gọi đoàn kết chống thực dân của Việt Nam (Delanoë 2002). Lời kêu gọi như vậy đã xuất hiện trong bức thư mà một bộ trưởng trong chính phủ của Hồ Chí Minh gửi cho nhà lãnh đạo độc lập của Maroc, Abd El-Krim, đang lưu vong ở Cairo đầu năm 1949. Ông viết:

 “Cuộc đấu tranh của chúng tôi là cuộc đấu tranh của các bạn, và cuộc đấu tranh của các bạn không có gì khác biệt so với cuộc đấu tranh của chúng tôi. Chính vì thế, sự đoàn kết giữa các phong trào giải phóng dân tộc từng bị đế quốc Pháp thống trị có thể đặt dấu chấm hết cho chủ nghĩa đế quốc Pháp. Thưa Ngài, chính phủ Hồ Chí Minh kính đề nghị Ngài sử dụng ảnh hưởng tinh thần lớn lao của mình để kêu gọi các binh sĩ Bắc Phi từ chối lên đường đến Việt Nam, đồng thời kêu gọi các công nhân cảng tẩy chay các tàu chiến của Pháp” (Saaf 1996)

Abd El-Krim, nhà lãnh đạo du kích cách mạng đã đánh bại quân đội Tây Ban Nha trong trận chiến huyền thoại Annual năm 1921 và thành lập Cộng hòa Rif tồn tại trong một thời gian ngắn (1921-1926) trước khi bị Pháp và Tây Ban Nha đánh bại bằng các cuộc không kích, sử dụng khí độc và bom napalm, pháo tự hành và hàng chục nghìn tân binh từ Đế quốc (Ayache 1990 và Daoud 1999), đã trả lời: “Chiến thắng chủ nghĩa thực dân, ngay cả ở đầu phía bên kia thế giới, chính là thất bại của chúng ta và sự nghiệp chính nghĩa của chúng ta. Chiến thắng của tự do ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới chính là... tín hiệu cho thấy nền độc lập của chúng ta đang đến gần”. (Saaf 1996)

Chuỗi thất bại liên tiếp của quân đội Pháp ở Đông Dương chỉ làm gia tăng nhận thức về sự cần thiết phải đoàn kết giữa các dân tộc thuộc địa. Đáp lại yêu cầu này, những người khuân vác người Algeria làm việc tại các cảng Oran và Algiers đã từ chối bốc dỡ vật liệu chiến tranh lên tàu đến Đông Dương (Ruscio 2004).

Người Việt cũng đã yêu cầu Abd El-Krim và Đảng Cộng sản Maroc cử một người Bắc Phi có thể thiết lập mạng lưới chiến tranh tâm lý, nhằm khuyến khích các binh sĩ Bắc Phi trong Quân đoàn Viễn chinh Pháp ở Viễn Đông (CEFEO) đào ngũ, gia nhập Việt Minh và cuối cùng quay trở về quê hương để chiến đấu chống lại thực dân Pháp. M'hamed Ben Aomar Lahrach đã đảm nhận vai trò này với bí danh Maarouf. Là một người Maroc, giống như Abd El-Krim, Maarouf là một nhà lãnh đạo công đoàn và là thành viên của Đảng Cộng sản Maroc (Delanoë 2002). Vào cuối những năm 1940, ông đã đến Hà Nội. Ông giải thích về hoạt động của mình với các binh sĩ Bắc Phi, những người hoặc gia nhập Việt Minh, hoặc bị bắt làm tù binh, như sau:

 “Tôi cố gắng tạo ra những ngôi làng thực sự cho những tù nhân Ả Rập và Kabyle của tôi, tôi đưa họ vào những túp lều khép kín, tôi cố gắng mang đến cho họ một cuộc sống gợi nhớ đến đất nước của họ. Chúng ta không được biến những người này thành người Việt Nam; chúng ta phải hồi hương họ càng nhanh càng tốt! Họ phải là chính họ; họ sẽ hình thành nên đội ngũ cán bộ của quân đội giải phóng của chúng ta... Tôi sẽ không để những kẻ đào ngũ người Maroc hay Algeria của tôi chết” (Delanoë 2002)]

Trong lời kêu gọi của mình đối với những người lính Bắc Phi chiến đấu cho phe Pháp ở Việt Nam, và trong việc giáo dục chính trị với những người lính Bắc Phi bị bắt hoặc được thu phục, thông điệp của Maarouf là: “Hãy trở về nhà: những người này, giống như các bạn ở Maroc, đang chiến đấu giành độc lập của chính họ… Hãy trở về nhà và sử dụng tinh thần chiến đấu của các bạn để giải phóng đất nước” (Saaf 1996). Quan trọng nhất, ông muốn giải cứu những người Bắc Phi đang bị Pháp sử dụng làm bia đỡ đạn, những người cảm thấy đang lạc lối ở đất nước Châu Á xa xôi này, với mục tiêu rõ ràng là hồi hương họ càng sớm càng tốt. 

Hiệu quả công việc của Maarouf được minh chứng rõ nhất qua việc hàng trăm người Algeria hồi hương, những người đã trở thành cán bộ quân sự hiệu quả cho Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algeria bắt đầu từ năm 1954/55. Các hoạt động của Maarouf thực sự anh hùng; bao gồm việc tham gia bắt giữ Tướng Pháp De Castries ở Điện Biên Phủ. Sự kính trọng của người Việt Nam đối với ông được thể hiện qua việc Hồ Chí Minh đã đặt cho ông cái tên Anh Mã, nghĩa là “Anh Ngựa”, và người Việt Nam đã phong cho ông quân hàm tướng và tặng ông nhiều huân chương (Saaf 1996 và Delanoë 2002).

Đối với Pháp, Điện Biên Phủ trở thành biểu tượng của sự ngoan cố lỗi thời dẫn đến thảm bại. Đối với Việt Nam, đó là biểu tượng của sự khôi phục nền độc lập dân tộc. Nhưng Điện Biên Phủ không chỉ là sự kiện lịch sử của riêng hai quốc gia này: trên toàn thế giới, trận chiến được coi là bước ngoặt báo hiệu sự xuất hiện của những trận chiến giải phóng khác. Tiếng súng vừa mới lắng xuống ở thung lũng Bắc Kỳ thì đã vang lên ở dãy núi Aurès ở Algeria. Và trong vòng chưa đầy một năm, “những người khốn khổ trên trái đất” đã tụ họp tại Bandung (Ruscio 2004). Đối với những kẻ thực dân, De Lattre, tổng tư lệnh của Pháp, đã tâm sự với viên sĩ quan mà ông giao phụ trách thành lập quân đội Việt Nam của mình rằng họ phải giữ vững đường lối đế quốc: “chính tại Bắc Kỳ, chúng ta đang bảo vệ các vị trí của mình ở Châu Phi. Mọi thứ phải phục tùng mệnh lệnh này” (Goscha 2022). Ngày nay, chính tại Gaza, chủ nghĩa đế quốc do Mỹ lãnh đạo đang tìm cách bảo vệ bá quyền toàn cầu của mình. 

Trong nỗ lực của Mỹ và Israel nhằm giữ vững đường ranh giới của đế quốc ở Gaza, họ đang áp dụng các biện pháp tàn bạo tương tự như những biện pháp mà người Pháp đã áp dụng ở Việt Nam, bao gồm cả việc bỏ đói dân thường. Người Pháp tập trung vào việc cắt đứt khả năng tiếp cận gạo của người Việt Nam, như một phần trong lệnh của Tướng Pháp Raoul Salan là “Bỏ đói kẻ thù” (sau này Salan thành lập Tổ chức Armée Secrète (OAS), một tổ chức khủng bố bí mật nhằm ngăn chặn nền độc lập của Algeria). Việc sử dụng thực phẩm làm vũ khí không phải là điều mới mẻ. Quân đội đế quốc đã thực hành hình thức chiến tranh này từ thời cổ đại. Nhưng người Pháp là người đầu tiên áp dụng cách tiếp cận này trong cuộc chiến thực dân thế kỷ XX - với hậu quả khủng khiếp đối với người Việt Nam. Để làm được như vậy, họ đã phá vỡ liên hệ giữa lực lượng chiến đấu và dân thường, giữa tiền tuyến và hậu phương của Việt Nam. Đây chính là la guerre totale (chiến tranh toàn diện), như Tướng Lionel-Max Chassin, tổng tư lệnh không quân Pháp ở Đông Dương vào đầu những năm 1950, đã ủng hộ. Chassin nhấn mạnh rằng đây là cách duy nhất để giành chiến thắng trong một cuộc chiến tranh thuộc địa, lập luận rằng “Người ta phải để người dân chết đói” (Goscha 2022). Năm 1956, Chassin nói với cấp trên của mình rằng ông “tin rằng nếu chúng ta giết hết trâu nước, phá hủy hết lúa gạo ở Đông Dương, chúng ta sẽ có thể kiểm soát người Việt Nam bất cứ khi nào chúng ta muốn”.

Những logic tương tự đã được Pháp áp dụng trong nỗ lực bình định” Algeria trong giai đoạn 1954-1962, và giờ đây chúng lại một lần nữa phát huy tác dụng trong cuộc chiến tranh toàn diện của Israel ở Gaza. Trên thực tế, những gì đang diễn ra ngày nay ở Gaza không chỉ là một cuộc diệt chủng. Mặc dù gần như không thể tìm ra thuật ngữ phù hợp để mô tả mức độ tàn phá và cái chết mà Israel đang gây ra cho người Palestine, nhưng vô số khái niệm hiện đang được sử dụng để hiểu được mức độ to lớn của những gì đang diễn ra: diệt chủng đô thị, diệt chủng học đường, diệt chủng nhà ở, diệt chủng sinh thái và diệt chủng toàn diện - sự hủy diệt toàn bộ một cấu trúc xã hội và sinh thái.

Illustration by Fourate Chahal El Rekaby

Illustration by Fourate Chahal El Rekaby

Bạo lực cách mạng và chiến tranh du kích đô thị trong thời kỳ phi thực dân hóa

“Chúng tôi là những người ủng hộ việc xóa bỏ chiến tranh, chúng tôi không muốn chiến tranh; nhưng chiến tranh chỉ có thể bị xóa bỏ thông qua chiến tranh, và để thoát khỏi súng, cần phải cầm súng” Mao Trạch Đông (Mao Trạch Đông 1967). 

“Chứng kiến tất cả những gì đã xảy ra ở đất nước mình, chúng tôi thấy rõ ràng là không còn lựa chọn nào khác ngoài đấu tranh vũ trang, và chúng tôi phải đối đầu với người Pháp, và bằng bạo lực” Zohra Drif (Drif 2017)

Các cuộc chiến tranh Đông Dương và Algeria chống lại chủ nghĩa thực dân Pháp đã trở thành nền tảng cho nền chính trị hiện đại ở cả hai nước. Cả hai cuộc đấu tranh giành độc lập đều định hình sâu sắc bản chất của tư tưởng chống thực dân trong những thập kỷ tiếp theo.

Christopher Goscha lập luận trong cuốn sách tuyệt vời của mình Đường đến Điện Biên Phủ rằng Hồ Chí Minh đã quản lý hai loại nhà nước thời chiến, một loại có khả năng chống lại thực dân, dưới hình thức du kích, giống như FLN Algeria đã làm ở Bắc Phi, loại còn lại có khả năng tạo ra lực lượng quân sự và tổ chức cần thiết để đánh bại quân đội thực dân phương Tây trong một trận chiến cố định, theo kiểu mà những người cộng sản Trung Quốc đã thực hiện. Nhờ sự hỗ trợ và cố vấn quân sự của Trung Quốc, sự hướng dẫn về khoa học quân sự hiện đại và sự ra đời của luật nghĩa vụ quân sự và động viên, những người cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo một cuộc cách mạng quân sự chưa từng có trong các cuộc chiến tranh giành độc lập nào khác trong thế kỷ XX (Goscha 2022). Thật vậy, những người theo chủ nghĩa dân tộc Algeria không phải là những người duy nhất không thể chuyển từ chiến tranh du kích sang chiến tranh thông thường: không có quân đội nào có thể giống như Quân đội Nhân dân Việt Nam, và sẽ không bao giờ có một Điện Biên Phủ nào khác. Nhưng điều đó không có nghĩa là các thế lực thực dân không thể bị đánh bại bằng những cách khác, bao gồm chiến tranh du kích.

Cuộc chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam không diễn ra độc lập với các sự kiện khác ở châu Á. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945–1954) diễn ra song song với chiến tranh Triều Tiên trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh mở rộng ở Đông Nam Á, nơi Mỹ coi việc hỗ trợ Pháp là cách để chống lại những người Cộng sản. Việc tiếp tục chiến tranh ở Việt Nam vào năm 1960 chứng kiến sự tham gia trực tiếp của Hoa Kỳ, với công nghệ chiến tranh đáng gờm và niềm tin chắc chắn vào chiến thắng của mình. Mỹ không còn cần sự hỗ trợ của một quốc gia thứ ba để giáng những đòn quyết định vào những người Cộng sản ở châu Á. Cuộc chiến tranh của Mỹ chống lại Việt Nam kéo dài 15 năm trước khi “đội quân bất khả chiến bại” của họ buộc phải rút lui mà không có vinh quang, để lại một đất nước bị tàn phá.

Sự tàn phá và bạo lực không chỉ xảy ra trong các cuộc cách mạng chống thực dân của Việt Nam. Tuyên chiến ở Algeria vào ngày 1 tháng 11 năm 1954 cũng khởi đầu một trong những cuộc chiến dài nhất và đẫm máu nhất trong lịch sử các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đầy rẫy những tội ác tàn bạo (Stora 2004). Lãnh đạo FLN đã đánh giá thực tế về cán cân quyền lực quân sự, hoàn toàn có lợi cho Pháp, quốc gia có quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó. Để ứng phó với thực tế này, chiến lược của họ được lấy cảm hứng từ câu nói của Hồ Chí Minh “Cứ chín người chúng ta hy sinh, chúng ta sẽ giết một - cuối cùng đế quốc xâm lược sẽ phải rút lui”. FLN muốn tạo ra một bầu không khí bạo lực và bất an không thể chịu đựng được với Pháp, quốc tế hóa xung đột và đưa Algeria ra trước dư luận quốc tế (Evans & Phillips 2007). Theo logic này, các nhà lãnh đạo cách mạng Abane Ramdane và Larbi Ben M’hidi đã quyết định mang chiến tranh du kích vào các khu đô thị, và cụ thể là phát động trận chiến Algiers vào tháng 9 năm 1956.

Không có cách nào tốt hơn để thực sự hiểu rõ khoảnh khắc quan trọng và đầy kịch tính của sự hy sinh trong cách mạng Algeria hơn là xem bộ phim hiện thực kinh điển của Gillo Pontecorvo, Trận chiến Algiers, phát hành năm 1966. Ban đầu bị cấm ở Pháp, bộ phim đã tái hiện một cách mạnh mẽ một số khoảnh khắc quan trọng của cuộc kháng chiến Algeria tại thủ đô và sự đàn áp của Pháp đối với nó. Trong một khoảnh khắc đầy kịch tính, Đại tá Mathieu, một vị tướng Massu được ngụy trang (người cũng đã chiến đấu trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất), giới thiệu thủ lĩnh FLN bị bắt Larbi Ben M'Hidi tại một cuộc họp báo, nơi một nhà báo đặt câu hỏi về tính đạo đức của việc giấu bom trong giỏ hàng của phụ nữ. Nhà báo hỏi: “Ông không nghĩ rằng việc sử dụng giỏ và túi xách của phụ nữ để mang theo những thiết bị nổ giết chết nhiều người như vậy là hơi hèn nhát sao?” Ben M'hidi trả lời: “Và điều hèn nhát hơn chẳng phải là việc thả bom napalm xuống những ngôi làng không có khả năng phòng thủ, để có hàng nghìn nạn nhân vô tội hơn sao? Hãy đưa cho chúng tôi máy bay ném bom của các ông, và các ông sẽ có thể có những chiếc giỏ của chúng tôi” (trích dẫn trong Fisk 2005).

Djamila Bouhired, một biểu tượng cách mạng đã trở thành một nhân vật truyền cảm hứng cho toàn thế giới Ả Rập (đặc biệt là người Palestine), cũng như nhiều nơi khác, là một nhân vật chủ chốt trong trận chiến Algiers và là một trong những người phụ nữ đã đặt bom khắp thành phố cùng với Zohra Drif, Samia Lakhdari và mẹ cô. Sau khi bị bắt, hãm hiếp và tra tấn dã man, cô đã anh dũng thách thức những kẻ bắt giữ và tra tấn: “Ta biết các ngươi sẽ tuyên án tử hình ta nhưng đừng quên rằng nếu giết ta, các ngươi không chỉ ám sát nền tự do ở đất nước các ngươi mà còn không ngăn cản được Algeria giành được tự do và độc lập”. 

Zohra Drif, một nữ anh hùng khác của Chiến tranh giành độc lập Algeria, nổi tiếng vì tham gia vào vụ đánh bom quán Milk Bar Café năm 1956, là một phần không thể thiếu trong mạng lưới đánh bom của FLN tại Algiers, làm việc với Ali La Pointe, Djamila Bouhired, Hassiba Ben Bouali và Yacef Saâdi, người đứng đầu Khu tự trị Algiers. Cuối cùng, bà đã bị bắt và bị tòa án quân sự Algiers kết án 20 năm lao động khổ sai vì tội khủng bố. Drif bị giam giữ trong khu dành cho phụ nữ của nhà tù Barbarossa. Trong hồi ký của mình, bà đã suy ngẫm về vai trò của Djamila Bouhired: “Họ có Marianne của họ, chúng tôi có Djamila của chúng tôi ... Đối với nước Pháp thuộc địa, bà là “linh hồn của chủ nghĩa khủng bố". Đối với chúng tôi và tất cả những người yêu chuộng tự do, bà đã trở thành linh hồn của sự giải phóng và là biểu tượng của Algeria trong chiến tranh, xinh đẹp và nổi loạn” (Drif 2017).

Cuộc đấu tranh anh hùng, lòng dũng cảm, sự kiên định và hy sinh của Bouhired vẫn còn vang vọng ở Palestine và vẫn nuôi dưỡng trái tim đang đập và truyền cảm hứng cho ngôn ngữ và trí tưởng tượng của sự kháng cự, cách mạng và cuộc đấu tranh giải phóng. Tấm áo choàng của Bouhired đã được chiến binh tự do người Palestine Leila Khaled tiếp nối, cùng với nhiều người khác.

Cuộc nổi loạn đô thị ở Algiers cuối cùng đã bị dập tắt không thương tiếc, thông qua việc sử dụng mọi hình thức tra tấn có hệ thống để tra khảo tù nhân, bao gồm cả việc gắn điện cực vào bộ phận sinh dục (Alleg 1958). Đến tháng 10 năm 1957, mạng lưới FLN ở Algiers đã bị giải thể, sau khi thủ lĩnh cuối cùng còn lại là Ali La Pointe cùng với Little Omar, Hassiba Ben Bouali và Hamid Bouhamidi bị đánh bom tại nơi ẩn náu của họ ở Casbah. Bất chấp thất bại về mặt quân sự này, FLN đã giành được một chiến thắng ngoại giao: Pháp bị cô lập trên trường quốc tế vì những phương pháp đàn áp tai tiếng mà họ sử dụng.

Kinh nghiệm của Algeria về chiến tranh đô thị như một phần của cuộc đấu tranh phi thực dân hóa không phải là chưa từng có. Hơn một thập kỷ trước khi FLN đặt bom ở Algiers, người Việt Nam đã chiến đấu trong các trận chiến đô thị lớn ở Sài Gòn, Hải Phòng và Hà Nội. Đó cũng là những trận chiến tàn khốc, với việc người Pháp sử dụng xe tăng, pháo binh và máy bay ném bom để phá hủy các đô thị của Việt Nam. Giống như Casbah ở Algiers, Phố cổ Hà Nội là nơi diễn ra trận chiến giành giật thành phố đó (1946–1947). Trong suốt cuộc giao tranh, tổng tư lệnh Quân đoàn Viễn chinh Pháp ở Đông Dương, Tướng Jean Vally, đã chỉ thị cho cấp dưới của mình 'tấn công mạnh vào chúng bằng đại bác và bom….để chấm dứt sự kháng cự và chứng minh cho kẻ thù thấy năng lực vượt trội áp đảo của chúng ta' (Goscha 2022). Đến cuối trận chiến, 'Casbah' của Hà Nội chỉ còn là đống đổ nát.

Mức độ bạo lực do người Pháp gây ra trên khắp Đồng bằng Sông Hồng và phần còn lại của miền núi Việt Nam từ tháng 1 năm 1951 đến giữa năm 1954 không có mức độ tương đương trong lịch sử trước đó của các cuộc chiến tranh phi thực dân hóa của thế kỷ XX. Trong số những người Việt Nam, có hơn một triệu người chết và hàng trăm nghìn người bị thương, bao gồm cả nạn nhân bị tra tấn, trong khi tổn thất của Quân đoàn Viễn chinh Pháp lên tới 130.000 người. Mức độ bạo lực tương tự cũng đạt đến mức kinh hoàng ở Algeria. Theo ước tính chính thức, có khoảng một triệu rưỡi người Algeria đã thiệt mạng trong cuộc chiến kéo dài tám năm kết thúc vào năm 1962. Một phần tư dân số (2,35 triệu người) bị giam giữ trong các trại tập trung, ít nhất 3 triệu người (một nửa dân số nông thôn) phải di dời, khoảng 8.000 ngôi làng bị phá hủy hoặc đốt cháy, hàng trăm nghìn hecta rừng bị đốt cháy hoặc bị phá hủy bởi bom napalm, đất canh tác bị gieo mìn hoặc được tuyên bố là 'khu vực cấm', và đàn gia súc của đất nước bị phá hủy (Bourdieu và Sayad 1964; Bennoune 1973).

Trong cả hai trường hợp (Algeria và Việt Nam), việc trả thù bẩn thỉu của thực dân đối với các hành động kháng cự táo bạo của người bị đô hộ còn bao gồm cả việc thúc đẩy làm mất nhân tính của “người khác” và gieo rắc lòng căm thù với ngôn ngữ phân biệt chủng tộc. Đối với người Pháp và các đồng minh của họ, người Việt Nam và người Algeria không còn là một dân tộc nữa, họ là những kẻ cướp, tội phạm và khủng bố. Một người lính trẻ người Pháp mất đi người bạn tâm giao ở Việt Nam đã giải thích những gì anh ta muốn làm với người Việt Nam: “Chúng ta phải tiêu diệt tất cả bọn chúng, không được thương hại chúng, chúng là những kẻ man rợ thực sự' (Goscha 2022). Thực hành tra tấn đã lan tràn trong quân đội Pháp nhiều năm trước khi lính dù Pháp đặt chân đến Algiers. Các cơ chế và chiến thuật làm mất nhân tính tương tự hiện đang được Israel sử dụng ở Palestine, với các tướng lĩnh, quan chức và nhân vật truyền thông Israel mô tả người Palestine là “động vật người”, “chuột”, “bọn man rợ” và “khủng bố” để biện minh cho tội ác chiến tranh, hành động tra tấn và thảm sát diệt chủng của họ. Chủ nghĩa thực dân và các chiến lược phân biệt chủng tộc của nó vẫn chưa chấm dứt.

Tại Việt Nam, Algeria và Palestine, không chỉ lực lượng vũ trang của các cường quốc thực dân áp dụng những chiến lược này mà bản thân những người thực dân/người định cư cũng đóng một vai trò. Khi những lính dù tinh nhuệ do chính phủ Pháp đưa đến để đàn áp cuộc nổi loạn ở Algiers diễu hành xuống phố chính của thành phố, đám đông người định cư Pháp phấn khích đã ra chào đón họ. Những cảnh tượng tương tự đã diễn ra ở Sài Gòn vào năm 1946 khi những người định cư đổ ra đường để chào đón những người lính giải phóng họ khỏi sự cai trị của 'người bản địa' (Goscha 2022). Trong cả hai trường hợp, có một liên minh chặt chẽ giữa quân đội và cộng đồng người định cư, những người đã chấp nhận bạo lực thực dân và sự đàn áp tàn bạo. Tương tự như vậy, ngày nay, xã hội những người định cư Israel đang ủng hộ mạnh mẽ cuộc diệt chủng của quân đội Israel ở Gaza và theo đuổi một cuộc chiến tranh toàn diện trên toàn khu vực. Vô số video và hình ảnh cho thấy người Israel reo hò và ăn mừng cái chết của người Palestine và giải thích rằng họ muốn thấy người Palestine biến mất khỏi vùng đất mà họ đã chiếm đoạt.

Illustration by Fourate Chahal El Rekaby

Illustration by Fourate Chahal El Rekaby

Palestine: Tiếp nối ngọn cờ cách mạng chống thực dân

‘Tôi muốn nói điều gì? Đó là không ai đi xâm lược mà không có “ý đồ” gì, không ai xâm chiếm thuộc địa mà vô tội; nói như vậy tức là bất cứ nền văn minh tiên tiến nào hợp thức hóa việc xâm chiếm (nhiều khi bằng vũ lực) thì nền văn minh ấy là một nền văn minh “bệnh hoạn”, một nền văn minh suy đồi về mặt đạo đức...’ Aimé Césaire (Césaire 2000)

“Chúng tôi nhớ tất cả những khổ đau, những bất công mà dân tộc chúng tôi đã phải chịu, sự lạnh nhạt của dư luận thế giới đối với lý tưởng của chúng tôi, và vì thế chúng tôi quyết định sẽ không để họ chà đạp lên dân tộc mình. Chúng tôi sẽ tự vệ và bảo vệ cuộc cách mạng của mình bằng mọi giá.’ George Habash, 1970

Vậy cuộc đấu tranh của Algeria và Việt Nam có liên quan gì đến cuộc chiến tại Palestine ngày nay? Câu trả lời chính là cuộc đấu tranh giành độc lập của người dân Palestine phải được đặt trong dòng chảy dài của các cuộc cách mạng chống thực dân. Dù có những đặc thù riêng, ba cuộc đấu tranh này cần được nhìn nhận như những phong trào chống thực dân nhằm giành lại tự do. Đồng thời, những sự kiện diễn ra ở Palestine, bao gồm cả cuộc diệt chủng hiện nay, cũng cho thấy rằng thế giới thực dân vẫn chưa bị xóa bỏ hoàn toàn.

Các phần sau đây sẽ tập trung vào những điểm tương đồng giữa cuộc chiến giành độc lập tại Palestine và các cuộc đấu tranh của người dân Algeria và Việt Nam.

Palestine và Algeria: Hai chị em trong thế giới Ả Rập

Tôi đã bay trên chiếc máy bay Algeria, dưới sự bảo vệ của Algeria, như thể tôi là một sứ giả Algeria chứ không chỉ là người Palestine. [Boumediene] muốn nói với thế giới rằng sứ giả Palestine Yasser Arafat không đơn độc — Algeria luôn sát cánh.” - Yasser Arafat

Có những bằng chứng rõ ràng cho thấy, có nhiều mối liên hệ giữa các cuộc đấu tranh giành độc lập của Palestine và Algeria. Một trong những điểm chung đó là họ cùng phải trải qua sự phân biệt chủng tộc, vô nhân đạo và mang tính diệt chủng, điều hiếm thấy tại vực Ả Rập. Cùng chia sẻ những trải nghiệm kinh khủng đó, các nhà cách mạng Palestine rất ngưỡng mộ những người anh em Algeria, trong khi đó người Algeria cũng có thể nhìn thấy hình ảnh cuộc kháng chiến chống Pháp của mình được phản chiếu qua nỗ lực cách mạng của người dân Palestine. Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algeria (FLN) đã truyền cảm hứng cho chiến lược đấu tranh vũ trang và sự thống nhất các đảng phái chính trị dưới một ngọn cờ chung của Palestine. Do đó, việc Algeria hỗ trợ Palestine từ thập niên 1960 trên tất cả các phương diện bao gồm ngoại giao, quân sự, vũ khí và tài chính là tất lẽ dĩ ngẫu.

Đối với phần lớn các nước thuộc “Thế giới thứ ba”, đặc biệt là những quốc gia vẫn đang chịu ách đô hộ, việc Algeria giành được độc lập vào năm 1962 đã mang lại hy vọng và trở thành nguồn cảm hứng cho các nước này. Thủ đô Algiers đã trở thành "thánh địa" cho các cuộc cách mạng khắp nơi trên thế giới - từ Việt Nam, Palestine đến miền Nam châu Phi – những người dân với khát khao lật đổ chủ nghĩa đế quốc và chống lại thực dân. Hiến chương Algiers năm 1964 đã tuyên bố về sự ủng hộ của Algeria đối với "cuộc đấu tranh của các dân tộc khác trên thế giới", bao gồm cả "đấu tranh vũ trang", quốc gia Algeria độc lập sau đó cũng đã cung cấp nơi tị nạn và hỗ trợ tài chính cho nhiều phong trào đấu tranh vì độc lập và chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, thực dân và đế quốc trên toàn cầu.

Tại thế giới Ả Rập, chính quyền mới Algeria đã thiết lập quan hệ với Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser và trở thành một trụ cột của làn sóng chống thực dân, góp phần đẩy lùi thực dân Pháp và Anh sau cuộc bại trận đáng tiếc ở kênh đào Suez năm 1956. Làn sóng này cũng bao gồm các sự kiện Tunisia và Maroc giành độc lập (1956), cùng với sự lật đổ các chế độ quân chủ ở Iraq (1958) và Bắc Yemen (1962). Cùng thời gian này, người Palestine cũng bắt đầu đưa ra những động thái đầu tiên để đưa đất nước của lại bản đồ chính trị - nơi mà trước đây họ đã bị khai trừ.

Trong các đoạn sau, tôi chủ yếu dựa vào tài liệu từ trang web có tính giáo dục rất cao về cuộc cách mạng của người dân Palestine (https://learnpalestine.qeh.ox.ac.uk/), do hai học giả Palestine Karma Nabulsi và Abdel Razzaq Takriti phụ trách, cũng như loạt podcast "Thawra" của The Dig, tập trung vào các phong trào cấp tiến Ả Rập trong thế kỷ 20.

Phong trào giải phóng của nhân dân Palestine đã tích cực liên kết với Algeria sau khi nước này giành độc lập vào năm 1962, khi Algiers trở thành điểm gặp gỡ của nhiều phong trào giải phóng nhân dân Á-Phi. Nhà văn, nhà chính trị gia Palestine Muhammad Abu Meizar, người đã gia nhập Fatah (Phong trào Giải phóng Quốc gia Palestine) năm 1962, mô tả cuộc gặp đầu tiên giữa Palestine và phong trào cách mạng Cuba đã diễn ra vào năm 1964, khi Che Guevara đến thăm Algiers. Thời điểm đó, người Palestine đã thiết lập quan hệ với rất nhiều phong trào giải phóng khác ở châu Phi, châu Á và Mỹ Latinh. Cũng từ Algeria, đoàn đại biểu Palestine đầu tiên đã đến thăm Trung Quốc vào năm 1965.

Abu Meizar đã mô tả sự hỗ trợ của Algeria đối với cuộc đấu tranh của Palestine như sau: "Nhờ Algeria, nhiều cuộc tiếp xúc với các phong trào giải phóng khác như Việt Nam, Trung Quốc, châu Phi… đã được tổ chức, và trở thành địa điểm cho các cuộc gặp. Algeria cũng là nơi đặt Học viện Quân sự Cherchell - một trong những cơ quan tối quan trọng, nơi nhiều người Palestine được đào tạo.Tại thời điểm đó, Fatah vẫn chưa nổ phát súng đầu tiên. Tuy nhiên, thông qua Algeria, phong trào này đã liên kết được với nhân dân từ khắp nơi, trong đó có Maroc, Tunisia, châu Phi, Việt Nam, Trung Quốc, Đông Nam Á, Mỹ Latinh và Cuba. Những mối quan hệ này không hề nhỏ, mà vô cùng quý giá và có ý nghĩa."

Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) mở trụ sở tại Algeria vào năm 1965. Chủ tịch đầu tiên của PLO (1964–1967), Ahmad al-Shukeiri, nổi tiếng với sự ủng hộ mạnh mẽ dành cho Algeria. Khi còn là đại diện của Ả Rập Xê Út và sau đó là Syria tại Liên Hợp Quốc, ông đã đóng vai trò tích cực trong việc bảo vệ cuộc cách mạng Algeria từ năm 1955 đến 1962. Algeria cũng đã đáp lại bằng sự hỗ trợ công khai đầu tiên cho cách mạng Palestine khi vào ngày 1 tháng 1 năm 1965, trang bìa tờ báo chính thức Al-Moudjahid của nước này đã đăng bài viết với tiêu đề "Những chiến binh cách mạng ngày 1/11 đón chào những nhà mạng ngày 1/1."

Trong thời gian này, Fatah đã phối hợp với Bộ Tư lệnh Lực lượng Vũ trang Algeria mở một trại huấn luyện binh sĩ Palestine tại Algeria ở ngoài khuôn khổ Học viện Quân sự Cherchell. Rất nhiều tình nguyện viên người Palestine từ châu Âu, Maghreb, thậm chí từ Mỹ đã được huấn luyện tại đây. Một số người sau này trở thành biểu tượng cho phong trào kháng chiến, như Mahmoud al-Hamshari, Ghazi al-Husseini và Abdullah Franji.

Abu Meizar kể về việc Algeria cung cấp vũ khí cho cuộc đấu tranh vũ trang của Palestine: "[Năm 1967] chúng tôi nhận được lô vũ khí đầu tiên từ Algeria cho Fatah, với sự hỗ trợ từ Mohammad Ibrahim al-Ali [Chỉ huy Quân đội Nhân dân Syria]. Chiếc máy bay đầu tiên chở đầy vũ khí đã bay đến Damascus. Đây là thỏa thuận về vũ khí đầu tiên của chúng tôi, nhưng cần nhớ rằng vào năm 1966, dưới thời Boumediene, Algeria đã chính thức hỗ trợ tài chính lần đầu tiên cho Fatah."

Chủ tịch PLO Yasser Arafat (1969–2004) luôn ghi nhận sự đoàn kết kiên định của Algeria với Palestine, cũng như sự ủng hộ của họ đối với các nỗ lực đấu tranh chống Chủ nghĩa phát xít chung của thế giới Ả Rập chống lại Israel. Ông từng kể về việc Tổng thống Algeria Houari Boumediene đã gửi quân tới Ai Cập để tham chiến trong cuộc chiến Ả Rập–Israel năm 1967. Ông Boumediene cũng đến Cairo và Damascus để xem xét các nhu cầu của họ, sau đó sang Liên Xô để đề nghị viện trợ xe tăng và vũ khí cho Ai Cập và Syria. Arafat thuật lại cuộc đàm phán giữa Boumediene và Liên Xô: "Người Nga nói họ cần thêm thời gian, nhưng ông ấy hỏi rằng 'thời gian' có nghĩa là tiền à? Nếu vậy, Algeria sẽ trả. Ông ngay lập tức chi 200 triệu USD (tương đương 2 tỷ USD ngày nay) để Liên Xô chuyển vũ khí khẩn cấp cho Ai Cập và Syria. Không ai có thể quên điều này."

Sau trận Naksa (thất bại) năm 1967, Boumediene tuyên bố:  

"Lịch sử sẽ phán xét chúng ta là những kẻ phản bội và thất bại... nếu chúng ta chấp nhận thua cuộc. Dân tộc Ả Rập sẽ không khuất phục. Israel có thể chiếm Sinai, Golan và Bờ Tây, nhưng lãnh thổ của thế giới Ả Rập kéo dài đến tận Algeria... Algeria không thể chấp nhận đầu hàng. Dân tộc Ả Rập đã sử dụng tất cả các nguồn nhân lực to lớn của mình chưa? Đã sử dụng tất cả các nguồn năng lượng vật chất khổng lồ mà họ có hiện nay chưa... để nói rằng họ đã thua trận? ... Trận chiến không chỉ là cuộc chiến của người Palestine. Đúng là chúng ta ở xa về mặt địa lý, nhưng chúng ta có một vai trò cần phải thực hiện."  

Quân đội Algeria do Boumediene cử đi vẫn ở lại Ai Cập để bảo vệ biên giới của nước này cho đến cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1973, tại đây họ đã cùng chiến đấu với quân đội Palestine trên mặt trận Suez.

Cuối cùng, sự ủng hộ tích cực của Algeria đối với cuộc đấu tranh giải phóng Palestine cũng được thể hiện qua việc lựa chọn thủ đô Algiers làm địa điểm công bố Tuyên ngôn Độc lập của Nhà nước Palestine vào tháng 11 năm 1988, được tuyên bố trong kỳ họp thứ 19 của Hội đồng Quốc gia Palestine.

Hàng ngày ở Gaza lại có thêm một Khâm Thiên khác  

Giống như Palestine và Algeria, Palestine và Việt Nam có một lịch sử lâu dài về tình anh em. Cuộc chiến đấu giải phóng của nhân dân Việt Nam, chống lại thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ, đã truyền cảm hứng cho người Palestine trong cuộc đấu tranh chống lại sự đô hộ của Israel trên lãnh thổ nước mình.  

Một trong những điểm tương đồng giữa cuộc đấu tranh của Palestine và Việt Nam là việc sử dụng đường hầm để thực hiện chiến thuật đánh du kích nhằm chống lại một đội quân mạnh hơn và được trang bị vũ khí tối tân hơn. Có lẽ do được truyền cảm hứng từ việc những người cộng sản Trung Quốc sử dụng đường hầm chống lại quân xâm lược Nhật Bản, người Việt Nam đã bắt đầu đào hệ thống đường hầm rộng lớn của mình vào những năm 1940 để ẩn náu và tấn công quân đội thực dân Pháp. Hệ thống đường hầm Củ Chi dài 150 dặm, nằm ở phía tây bắc Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh), là một căn cứ chiến lược của quân du kích cộng sản, được gọi là Việt Cộng. Những đường hầm này có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam, trong đó có việc được sử dụng làm căn cứ hoạt động cho Chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Ngày nay, cả hai phong trào kháng chiến chống Israel của người dân Palestine và Lebanon đều đang dùng các đường hầm như vậy. Các đường hầm ở Gaza là căn cứ của lực lượng kháng chiến Palestine, góp phần gây tổn thất đáng kể cho quân đội Israel.  

Một điểm tương đồng khác của Palestine và Việt Nam là mức độ tàn phá mà các thế lực đàn áp gây ra. Đối với người Việt Nam, sự tấn công của Israel nhắm vào dải Gaza ngày nay gợi nhớ đến các cuộc ném bom của Mỹ vào năm 1972. Thời điểm đó, Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã ra lệnh ném bom thủ đô Hà Nội của miền Bắc Việt Nam vào dịp lễ Giáng sinh năm 1972. Bắt đầu từ ngày 18 tháng 12 và kéo dài liên tục trong 12 ngày đêm, khoảng 20.000 tấn bom đã được thả xuống Hà Nội, cũng như thành phố cảng nhộn nhịp phía bắc Hải Phòng và các địa phương khác. Khu phố Khâm Thiên của Hà Nội chịu thiệt hại nặng nề nhất.  

Sự tương đồng giữa cuộc chiến diệt chủng của Israel ở dải Gaza và cuộc xâm lược của Mỹ ở Việt Nam hiện đã được các nhà hoạt động trẻ Việt Nam phục dựng lại rất rõ ràng để giới thiệu về sự nghiệp đấu tranh của người dân Palestine nhằm hướng đến các đối tượng khán giả mới (Dang 2024). Tiếng vọng lịch sử của cả hai cuộc chiến, bao gồm hình ảnh về sự tàn phá khốc liệt ở các trung tâm đô thị (Gaza và Khâm Thiên), cùng với những lời đe dọa bạo lực của các nước xâm lược - tuyên bố “san phẳng Gaza” của Israel và "đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá" của Mỹ - đã tạo nên một phần của kho tàng biểu tượng chung của những trang sử về các cuộc chiến tranh thuộc địa và kháng chiến chống thực dân. Sự tương đồng về lịch sử này khơi dậy một nhận thức mới về tinh thần đoàn kết xuyên quốc gia giữa những người dân đã và đang bị áp bức.  

Tinh thần đoàn kết đang ngày nay, thực chất đã có từ nhiều năm trước: Sự ủng hộ của Việt Nam dành cho người dân Palestine và cuộc đấu tranh giải phóng của họ đã không hề lay chuyển trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh và cho đến những năm 1990. Điều này có được là do niềm tin của những nhà lãnh đạo Việt Nam rằng sự nghiệp cách mạng của Palestine cũng giống như sự nghiệp đấu tranh chống lại các thế lực ngoại xâm, giành lại độc lập và thống nhất của Việt Nam. PLO đã thiết lập quan hệ với miền Bắc Việt Nam vào năm 1968 và thành lập văn phòng đại diện thường trú sau khi cuộc chiến tranh tại Việt Nam kết thúc vào năm 1975. Văn phòng này sau đó trở thành đại sứ quán Palestine tại Việt Nam. Trong những năm 1990, Việt Nam đã nhiều lần đón tiếp các nhà lãnh đạo Palestine, trong đó có Yasser Arafat. Về phía Palestine, mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước đã được đúc kết nhà thơ Mahmoud Darwish đúc kết trong một tác phẩm năm 1973, khi chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn cuối với việc ký kết Hiệp định Hòa bình Paris như sau: "Trong lương tri của nhân dân thế giới, ngọn đuốc đã được truyền từ Việt Nam sang chúng ta." PLO là một trong số rất ít các tổ chức và quốc gia Nam Bán cầu đã lên án Trung Quốc xâm lược Việt Nam năm 1979.

Illustration by Fourate Chahal El Rekaby

Illustration by Fourate Chahal El Rekaby

Cuộc chiến còn dài và đường đi còn lắm gian nan

"Khi cánh cửa nhà tù được mở, con rồng thực sự sẽ bay ra." - Hồ Chí Minh (Minh 1967)  

"Người đấu tranh vì tự do sẽ nhận ra được một sự thật nghiệt ngã rằng chính kẻ áp bức mới định nghĩa bản chất của cuộc đấu tranh, và người bị áp bức do đó thường không còn cách nào khác ngoài việc sử dụng mọi đối sách để tương ứng với phương thức của kẻ áp bức." - Nelson Mandela (Mandela 1994).  

"Gaza đã và sẽ mãi là thủ phủ của sự kiên cường, trái tim của Palestine không ngừng đập ngay cả khi thế giới đóng lại với chúng ta. ... Vì vậy, hãy bám chặt vào nơi này như rễ cây bám vào đất, bởi không có “cơn gió” nào có thể đánh bật gốc một dân tộc đã chọn sống." - Younes Masskine, 2024.  

Trong các phần trước, tôi đã lập luận rằng cuộc đấu tranh giành độc lập của người dân Palestine cần được đặt lại trong dòng chảy dài của các phong trào đấu tranh chống thực dân/chống đế quốc/chống phân biệt chủng tộc, và của quá trình phi thực dân hóa, bao gồm các cuộc đấu tranh của Haiti, Việt Nam, Cuba, Algeria, Guinea Bissau, Cape Verde và Nam Phi. Do đó, đây là một cuộc đấu tranh cần được ủng hộ, thay vì bị lên án. Tuy nhiên, như Edward Said từng viết, "Sự nghiệp đấu tranh của Palestine là tàn khốc và khó khăn nhất, không phải vì nó chịu sự bất công, mà vì vẫn còn nguy hiểm khi để cập đến nó..." Tuy nhiên, đứng trước thảm kịch diệt chủng này, chúng ta không thể cam tâm im lặng: chúng ta phải lên tiếng về Palestine một cách trung thực và cụ thể nhất có thể.  

Phi thực dân hóa Palestine đòi hỏi phải chấm dứt sự chiếm đóng, xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc và giải thể chế độ thực dân định cư của Israel. Tất cả các nhà cách mạng chống thực dân (bất kể ý thức hệ của họ, dù là chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa dân tộc, bảo thủ tôn giáo, v.v.) đều bị những kẻ thực dân và áp bức mô tả là khủng bố, man rợ và tàn độc. Và tất cả các cường quốc thực dân đều đáp trả một cách tàn bạo và mất nhân tính trước các hành động kháng cự của những người bị áp bức và bị đô hộ. Do đó, đã đến lúc chúng ta ngừng việc đánh đồng một cách sai lầm giữa bạo lực chính đáng (và quyền được kháng cự) của những người bị áp bức và bị đô hộ (đấu tranh cho sự tự do của chính mình) với bạo lực vô hạn của những kẻ áp bức và thực dân, vốn chỉ được sử dụng để duy trì trạng thái bất công và tàn bạo. Nhà cách mạng người Guyana, Walter Rodney đã diễn đạt điều này bằng những ngôn từ đanh thép sau:  

"Chúng ta được dạy rằng bạo lực tự thân nó là xấu xa, và rằng, cho dù nguyên nhân là gì, cũng đều không thể được biện minh về mặt đạo đức. Theo tiêu chuẩn đạo đức nào mà bạo lực được sử dụng bởi một nô lệ để tự phá vỡ xiềng xích có thể được coi là tương đồng với bạo lực của kẻ chủ nô? Theo tiêu chuẩn nào mà chúng ta lại có thể đánh đồng bạo lực của người da màu, những người đã bị áp bức, đàn áp, chèn ép và đè nén trong bốn thế kỷ, với bạo lực của những kẻ phát xít da trắng? Bạo lực nhằm mục đích giành lại nhân phẩm và bình đẳng không thể được đánh giá bằng cùng một thước đo với bạo lực nhằm duy trì sự phân biệt đối xử và áp bức." (Rodney 1969)  

Bất chấp tất cả sự kinh hoàng, tàn phá khủng khiếp và thảm sát hàng loạt trong cuộc tấn công diệt chủng của Israel vào Gaza trong năm qua, cuộc tấn công vào Toufan Al-Aqsa ngày 7 tháng 10 của phong trào giải phóng Palestine có thể được coi là đã đánh dấu khởi đầu cho sự kết thúc chế độ thực dân định cư của Israel (Pappé 2024). Hơn nữa, bất chấp các vụ ám sát có chủ đích nhắm vào các nhà lãnh đạo Hamas và Hezbollah, lực lượng kháng chiến vẫn nguyên vẹn và kiên cường trên chiến trường. Mặc dù còn quá sớm để khẳng định chắc chắn, nhưng những gì đang diễn ra ở Palestine và Lebanon đang trở nên ngày càng giống như sự kiện ngày 8 tháng 5 năm 1945 ở Algeria, chương đầu tiên của cuộc đấu tranh nhân dân kéo dài nhằm xóa bỏ chế độ thực dân định cư. Hamas đã phá vỡ huyền thoại về sự bất khả chiến bại của Israel, và thông qua cuộc kháng chiến anh dũng ở dải Gaza hiện nay, đội quân này đang khẳng định mình là người dẫn đầu của phong trào kháng chiến Palestine chống lại sự chiếm đóng, phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa thực dân định cư, thu hút sự đồng cảm lớn từ khắp thế giới Ả Rập và hơn thế nữa. Cuộc chiến bất cân xứng đang diễn ra không chỉ đơn thuần là một cuộc chiến giữa đội quân Hamas và Israel, mà là một cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Palestine. Đây cũng đã là một cuộc chiến tranh khu vực, vì Israel và các đồng minh phương Tây (chủ yếu là Mỹ và Anh) đang chiến đấu ở các cường độ khác nhau trên năm mặt trận: Gaza/Bờ Tây, Lebanon, Yemen, Iraq/Syria và Iran.  

Cần phải nhớ rằng đấu tranh vũ trang là cần thiết trong một số hoàn cảnh nhất định, và điều này đúng với đất nước Palestine đang bị đô hộ trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân định cư Zion. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải đặt đấu tranh vũ trang ở một phạm vi chính trị cách mạng rộng lớn hơn, để bảo đảm không có sự tùy tiện hoặc ngẫu nhiên trong việc lựa chọn mục tiêu. Đối với cách tiếp cận như vậy, đấu tranh vũ trang có thể được hiểu là một công cụ để huy động sự ủng hộ chính trị chứ không phải là một chiến thuật xua đuổi/xa lánh các đồng minh tiềm năng. Kháng chiến hiệu quả, như nhà cách mạng học giả Pakistan Eqbal Ahmad nhìn nhận, theo đó cần một chiến lược mà các chiến thuật quân sự và chính trị khác nhau được kết hợp linh hoạt, trên cơ sở vị trí mà kẻ thù chiếm giữ và được đặt trong bối cảnh chính trị rộng lớn hơn. Theo cách hiểu này, bạo lực và phi bạo lực không nên đơn thuần được coi là các chiến lược loại trừ lẫn nhau, yêu cầu các dân tộc bị áp bức cần phải lựa chọn một trong hai phương thức. Theo cách nhìn của học giả cách mạng người Pakistan Eqbal Ahmad, sự kháng cự hiệu quả đòi hỏi một chiến lược linh hoạt kết hợp nhiều phương pháp đấu tranh quân sự và chính trị khác nhau, dựa trên vị thế và lập trường của kẻ thù và bối cảnh chính trị rộng lớn hơn. Do đó, phân tích của chúng ta về bạo lực chính trị cần phải tách rời khỏi những lập luận thuần túy mang tính chuẩn mực/đạo đức như lập luận của một số ý kiến phản đối từ phía cánh tả đối với việc sử dụng vũ lực của đội quân Hamas. Hơn nữa, việc chối bỏ kháng chiến chống thực dân chỉ vì nó mang màu sắc Hồi giáo phản ánh sự ám ảnh sâu sắc của chứng sợ Hồi giáo (Islamophobia), điều mà đáng tiếc thay đã được một bộ phận cánh tả Âu-Mỹ hưởng ứng.

Ngay từ những ngày đầu, phong trào giải phóng Palestine đã nhận thức được sự cần thiết của đấu tranh vũ trang nhằm chống lại chế độ thực dân, phân biệt chủng tộc và chiếm đóng tàn bạo. Đồng thời, giống như những người anh em Algeria và Việt Nam, họ cũng biết rằng việc đánh bại một cường quốc quân sự hiện đại và tinh vi (được hậu thuẫn bởi khối đế quốc do Mỹ dẫn đầu) là một nhiệm vụ bất khả thi. Để thành công và đạt được mục tiêu, cuộc đấu tranh vũ trang của Palestine do đó cần phải được đặt trong nền tảng vững chắc của một chiến lược chính trị cách mạng rộng lớn hơn và được dẫn dắt bởi một mặt trận chống thực dân thống nhất.  

Sự thật này có thể được minh họa thông qua trường hợp của Algeria, cụ thể là cách tiếp cận được thực hiện bởi Abane Ramdane. Được mệnh danh là “kiến trúc sư” của cuộc đấu tranh giành độc lập Algeria, Ramdane đã tổ chức các cấu trúc chính trị và quân sự khác nhau cho cuộc cách mạng Algeria và tạo ra một mặt trận thống nhất mạnh mẽ hơn bằng cách hợp tác với các lực lượng chính trị khác, đặc biệt thông qua Đại hội Soummam vào tháng 8 năm 1956 (Harbi 2024). Chính Ramdane, cùng với các đồng đội khác, đã nhấn mạnh tầm quan trọng hơn của động thái chính trị so với các hoạt động quân sự, nhưng cũng chính Ramdane là người kiên quyết đưa cuộc chiến đến thủ đô Algiers, trong Trận chiến Algiers. Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algeria (FLN) đã không giành chiến thắng trong cuộc chiến chống lại Pháp về mặt quân sự, nhưng họ đã giành chiến thắng trong các thế trận chính trị và ngoại giao mang tính quyết định hơn, bằng cách cô lập và làm mất tính chính danh của chế độ thực dân Pháp, đồng thời xây dựng các liên minh mạnh mẽ trên trường quốc tế ở·Hội nghị Bandung năm 1955, các diễn đàn liên châu Phi, châu Âu và Đại hội đồng Liên Hợp Quốc trong những năm sau đó.  

Rõ ràng, bối cảnh chính trị toàn cầu đã thay đổi đáng kể kể từ những năm 1950 và 1960. Chúng ta không còn sống trong thời đại đấu tranh giành độc lập và Chủ nghĩa Thế giới thứ ba. Tệ hơn nữa, thời đại của chúng ta là thời đại mà luật pháp quốc tế bị chà đạp một cách công khai bởi các cường quốc, nền tảng tự do phương Tây về nhân quyền và dân chủ (trên các phương diện chính trị, trí tuệ, văn hóa và truyền thông) đang sụp đổ trước mắt chúng ta đồng thời bộc lộ rõ bản chất diệt chủng và da trắng thượng đẳng đích thực của nó. Đấu trường khu vực cũng không khá hơn khi Palestine đang bị bao vây bởi các chế độ phản động và phản bội Ả Rập, những kẻ đã bán rẻ lý tưởng của nhân dân Palestine cho Mỹ và Israel. Cần tính đến bối cảnh cực kỳ thách thức này khi tìm cách xây dựng một chiến lược chính trị hiệu quả để có thể thống nhất các lực lượng chống thực dân tại Palestine và truyền đạt một cách hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng ở tất cả các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Việc tăng cường nỗ lực Tẩy chay, Rút vốn và Trừng phạt (BDS) là một một phần vô cùng quan trọng của chiến lược đa tầng này.  

Gaza đã thức tỉnh thế giới, và Palestine đã trở thành định nghĩa tiêu biểu cho cuộc đấu tranh của thời đại chúng ta. Palestine là phép thử đối với các phong trào và tổ chức tiến bộ, đây cũng là một bài kiểm tra đối với mỗi chúng ta. Như Adam Hanieh đã lập luận một cách sắc bén, cuộc đấu tranh giải phóng Palestine không chỉ là vấn đề đạo đức và nhân quyền: nó về cơ bản là một cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc do Mỹ dẫn đầu và chủ nghĩa tư bản hóa thạch toàn cầu, bởi vì hai trụ cột của quyền lực Mỹ trong khu vực và toàn cầu là Israel, một thuộc địa thực dân Âu-Mỹ, và các chế độ quân chủ vùng Vịnh giàu tài nguyên dầu mỏ, vốn là một nút thắt quan trọng trong chủ nghĩa tư bản hóa thạch toàn cầu. Do đó, Palestine là một mặt trận toàn cầu chống lại chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản hóa thạch và tư tưởng da trắng thượng đẳng. Ở khía cạnh này, thành công của các cuộc đấu tranh (mặc dù đang tạm thời bị đàn áp và thất bại) nhằm lật đổ các chế độ phản động Ả Rập trong khu vực - chủ yếu là các chế độ quân chủ Vùng Vịnh, Ai Cập và Jordan - là cần thiết cho chiến thắng của cách mạng Palestine. Đồng thời, cuộc chiến tranh diệt chủng của Israel cũng đã bộc lộ rõ không chỉ sự thật về một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ rỗng tuếch và hỗn loạn, mà còn phơi bày sự suy đồi về đạo đức và chính trị của các thể chế Ả Rập, ở đó một số chỉ làm bộ chứ không hành động, trong khi một số khác thì tích cực đồng lõa với tội ác của chủ nghĩa Zion (đặc biệt là Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Saudi Arabia, Ai Cập, Jordan và Maroc). Thực tế này đã trở nên quá rõ ràng đối với người dân Ả Rập trong năm qua. Điều này có thể góp phần củng cố quyết tâm của họ trong việc lật đổ các chế độ này trong những năm tới (hãy nhớ lại rằng khẩu hiệu cách mạng của nhân dân Sudan và Algeria năm 2018 và 2019 là "Hãy làm cho tất cả bọn chúng sụp đổ").  

Những nỗ lực cứng đầu của người Pháp và đồng minh nhằm giữ vững thế trận đế quốc ở khu vực Đông Dương để duy trì vị thế ở châu Phi trong những năm 1940 và 1950 của thế kỷ trước chẳng khác là mấy so với động thái hiện nay của Mỹ, Israel và đồng minh trong việc cố gắng giữ vững mặt trận đế quốc ở Palestine và rộng lớn hơn là ở Trung Đông để chống lại Trục Kháng chiến, được đại diện bởi Cộng hòa Hồi giáo Iran, Hezbollah và các đồng minh trong phong trào kháng chiến Lebanon, cùng với Hamas và các đối tác trong phong trào kháng chiến Palestine, cũng như Ansar Allah (hay lực lượng Houthi) trong chính phủ Yemen và một loạt các nhóm kháng chiến Iraq. Do đó, rõ ràng là đối với các lực lượng chống đế quốc toàn cầu, việc loại bỏ chủ nghĩa này ở Palestine nói riêng và khu vực Trung Đông nói chung có vai trò chiến lược tối quan trọng đối với phong trào cách mạng khắp thế giới, đúng như lời nhà trí thức cách mạng, nhà thơ và nhà hoạt động chính trị Palestine, Ghassan Kanafani đã được trích dẫn ở đầu bài viết này.  

Mục đích của tôi khi viết bài này không phải để ca ngợi hay lãng mạn hóa các cuộc cách mạng và lực lượng kháng chiến chống thực dân, bởi vì tất cả các cuộc cách mạng đó đều có những vấn đề, mâu thuẫn, thiếu sót và thất bại riêng. Hơn nữa, thực tế "hậu thuộc địa" ở các quốc gia "độc lập", cũng là nội dung chính mà bài viết này tập trung vào, đã chỉ ra những cạm bẫy của ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa và sự sụp đổ của một số giai cấp tư sản dân tộc, điều đã được Fanon đã mô xuất sắc trong tác phẩm Những kẻ khốn cùng trên Địa cầu. Tuy nhiên, thay vì áp dụng một lập trường vô căn cứ và quay lại phán xét rằng những nỗ lực cách mạng này không đáng giá, chúng ta cần phải xem xét các cuộc cách mạng là một tiến trình dài và tiếp diễn không ngừng, với những thăng trầm, chứ không phải là những thành công hay thất bại ở từng thời điểm cụ thể.  

Để đánh giá một cách duy vật đầy đủ về các cuộc cách mạng, điều quan trọng là phải xem xét đồng thời ở các khía cạnh quốc gia, khu vực và quốc tế của các cuộc đấu tranh đó. Sự đoàn kết xuyên lãnh thổ giữa các dân tộc bị áp bức và bị đô hộ đã và đang tiếp tục là động lực làm thay đổi thế giới. Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến sức mạnh và ý nghĩa của sự đoàn kết Nam-Nam, thông qua cam kết của các quốc gia phương Nam đối với sự nghiệp của nhân dân Palestine và nỗ lực cô lập chế độ thực dân định cư của Israel. Vụ kiện của Nam Phi chống lại Israel vì vi phạm Công ước Diệt chủng tại Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) là một trong những nỗ lực đó, và đó là một bước chuyển mình mang tính lịch sử khi những người dân châu Phi (cùng với đồng minh của họ) đang làm rúng động chủ nghĩa da trắng thượng đẳng và chủ nghĩa thực dân, như lời của Báo cáo viên Đặc biệt Liên Hợp Quốc Francesca Albanese: họ đang "chiến đấu để cứu lấy nhân loại và hệ thống pháp lý quốc tế trước các cuộc tấn công tàn bạo được hậu thuẫn/khơi mào phần lớn từ các quốc gia phương Tây". Việc chứng kiến họ tiến hành cuộc chiến này "sẽ mãi là một trong những hình ảnh định nghĩa thời đại của chúng ta. ... [sự kiện này] sẽ là một dấu mốc lịch sử dù cho kết quả có ra sao" Tại La Hay, chúng ta đã thấy các đại diện của quốc gia từng trải qua và lật đổ chế độ phân biệt chủng tộc đứng lên vì phẩm giá, công lý và tình đoàn kết, cũng như dang tay ra với một dân tộc khác hiện đang phải chống lại sự áp bức thực dân và chế độ diệt chủng để khẳng định quyền tự do và công lý của mình. Phương Nam (dù vẫn còn những khiếm khuyết và mâu thuẫn) đang dạy cho phương Bắc "trân quý nhân quyền và dân chủ" một bài học về đạo đức chính trị. Những người kế thừa Mandela, thông qua các hành động của mình đang tôn vinh hồi ức của ông đồng thời nhấn mạnh sự thật ông đã từng nêu rằng: "...chúng ta đều rõ ràng rằng tự do của ta sẽ không vẹn toàn nếu thiếu đi tự do của nhân dân Palestine."

Nhiều quốc gia ở Nam bán cầu bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia, Jordan, Brazil, Colombia, Bolivia, Pakistan, Namibia, Maldives, Malaysia, Cuba, Mexico, Libya, Ai Cập, Nicaragua, Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (gồm 57 thành viên) và Liên đoàn Ả Rập (gồm 22 thành viên) đang ủng hộ vụ kiện của Nam Phi. Trái lại, các cường quốc phương Tây (Mỹ, Anh, Canada và Đức) lại đứng về phía Israel. Đức đã bị Namibia, thuộc địa cũ của nước này, lên án mạnh mẽ vì bảo vệ cho những cuộc diệt chủng của Israel ở dải Gaza mà lãng quên đi bài học lịch sử về tội ác của chính mình ở hai cuộc diệt chủng kinh hoàng trong thế kỷ XX (cuộc diệt chủng Herero và Namaqua ở Namibia và Holocaust ở châu Âu). Cùng với đó, Chile và Mexico đã kêu gọi Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) điều tra về tội ác chiến tranh của Israel tại Gaza. Những hành động này, cùng với việc hàng chục quốc gia cắt đứt quan hệ ngoại giao với Israel và các động thái của Colombia (và có thể cả Nam Phi) cấm xuất khẩu than cho Israel vạch nên một ranh giới rõ ràng giữa Bắc và Nam (mặc dù vẫn còn tồn tại một số mâu thuẫn nhất là giữa quốc gia như Jordan và Ai Cập). Những diễn biến này củng cố xu hướng chuyển dịch sang một thế giới đa cực, nơi Nam bán cầu được lên tiếng trên các khía cạnh chính trị và kinh tế. Chúng ta chưa đạt đến một thời kỳ Bandung mới, tuy nhiên bước ngoặt lịch sử này sẽ đẩy nhanh sự suy tàn (ít nhất là trong tư tưởng) của đế chế do Mỹ dẫn đầu và làm gia tăng mâu thuẫn của nó.

Các phiên điều trần của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) và những diễn biến sau đó là thách thức nghiêm trọng đối với thế giới phương Tây (nơi "da trắng" không chỉ là một phạm trù về chủng tộc mà còn là cấu trúc ý thức hệ), với thiết chế phương Tây, hệ thống chủ nghĩa ‘nhân quyền phổ quát’ đang sụp đổ của họ, và có thể đẩy nhanh sự sụp đổ của ‘trật tự, hay hỗn loạn, dựa trên luật lệ’ quốc tế. Rõ ràng rằng, nền dân chủ tư sản phương Tây/Bắc bán cầu cũng đang trải qua một cuộc khủng hoảng sâu sắc (nếu không muốn nói là chết chóc) về tính chính danh, sự bá quyền (theo định nghĩa của Gramsci) đang suy yếu dần. Điều này giải thích cho sự chuyển hướng rõ rệt và ngày càng phụ thuộc vào chiến tranh cũng như sự củng cố của logic quân sự/diệt chủng. Chủ nghĩa tư bản-đế quốc đang bước vào giai đoạn man rợ công khai. Như Gramsci đã từng nói: "Cái cũ đang chết dần và cái mới không thể ra đời; trong khoảng thời gian này, hàng loạt triệu chứng bệnh hoạn xuất hiện."

Trong bối cảnh mà cả hệ thống chính trị và kinh tế quốc tế đổ lỗi cho nạn nhân thay vì những kẻ tạo dựng và duy trì tội ác, đánh lạc hướng mọi sự chú ý khỏi các cơ chế thống trị, và vin vào văn hóa (thường là phân biệt chủng tộc) để biện minh cho thất bại, thì việc nghiên cứu thật kỹ các chiến dịch cách mạng và tiến bộ trong quá khứ là vô cùng quan trọng với chúng ta. Chúng ta cần sự một lý tưởng rõ ràng để tạo ra một sự đột phá trước chiều dài lịch sử đằng đẵng của cướp bóc, bạo lực và bất công mà phần lớn người dân trên hành tinh phải gánh chịu. Điều này cũng giúp ta vượt lên khỏi chiến dịch truyền thông của một chế độ nô dịch hóa đang che giấu gông cùm và xiềng xích của bằng những ngôn từ “vuốt ve” như ‘bàn tay vô hình của thị trường’, ‘toàn cầu hóa hạnh phúc’, ‘trách nhiệm nhân đạo để bảo vệ’ – hay ‘Israel có quyền tự vệ’.

Rõ ràng là đa số những người bị áp bức không còn có thể chấp nhận tồn tại dưới một hệ thống thể chế phi nhân tính, tôn vinh sự bóc lột đến cùng cực, thống trị thiên nhiên và con người, một chế độ tạo ra sự bất bình đẳng khổng lồ và nghèo đói chưa từng có, với xu hướng sử dụng chiến tranh và vũ lực, tàn phá hệ sinh thái và khí hậu. May mắn thay, các cuộc nổi dậy và khởi nghĩa với mục tiêu cốt lõi là để chống lại chế độ này đang diễn ra trên khắp các lục địa và khu vực. Nhưng để những hành động phản kháng cục bộ này thành công, chúng cần vượt ra khỏi địa phương và vươn tới toàn cầu; chúng cần tạo ra các liên minh bền vững đối mặt với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân/đế quốc, chế độ da trắng thượng đẳng.

Liệu những cuộc đấu tranh trong thời buổi hiện nay – từ các cuộc nổi dậy ở Ả Rập, Châu Phi, Châu Á và Mỹ Latinh đến phong trào Người da màu đáng được sống (Black Lives Matter), sự kháng cự của các cộng đồng dân cư bản địa và phong trào lao động, và từ các phong trào vì công lý khí hậu, chủ quyền về lương thực và hòa bình, đến các cuộc cắm trại sinh viên, phong trào chống phát xít/chống phân biệt chủng tộc và sự kháng cự của Palestine/Lebanon - có thể quy tụ và xây dựng thành các liên minh mạnh mẽ trên toàn cầu để khắc phục những mâu thuẫn và điểm yếu của chính họ? Liệu họ có thể mở ra một thời khắc mới để chúng ta thách thức những cơ sở nền tảng của chế độ thực dân hiện tại và có thể thực sự phi thực dân hóa nền chính trị, kinh tế, văn hóa và nhận thức của ta? Mục tiêu này không chỉ khả thi mà còn là cấp thiết, và các liên minh xuyên quốc gia là điều cốt yếu trong cuộc đấu tranh toàn cầu để giải phóng những người khốn khổ. Tại đây, chúng ta có thể lấy cảm hứng từ quá khứ, bằng cách nhìn vào giai đoạn phi thực dân hóa bao gồm Bandung, chủ nghĩa Thế giới Thứ ba, Tricontinental (Phong trào đoàn kết Châu Á-Châu Phi-Châu Mỹ La-tinh), và các bài học quốc tế tương tự.

Một số sự kiện lịch sử đã bị phớt lờ, một số khác bị bóp nghẹt nhằm duy trì bá quyền và che giấu đi một thời kỳ đầy cảm hứng của sự đoàn kết giữa những cuộc đấu tranh cách mạng giành độc lập trên khắp các lục địa khác nhau. Chúng ta phải đào sâu vào quá khứ để thực sự hiểu những trang sử này, để học hỏi và tìm ra những tiềm năng quy tụ cho các cuộc đấu tranh hiện nay. Ví dụ, chúng ta cần nhớ và học hỏi từ thực tế rằng Algeria độc lập đã trở thành biểu tượng mạnh mẽ của cuộc đấu tranh cách mạng và là hình mẫu cho các mặt trận giải phóng khác nhau trên toàn cầu. Với chính sách ngoại giao đột phá, vào những năm 1960 và 1970, thủ đô Algiers của Algeria trở thành “thánh địa” cho các nhà cách mạng. Chính Amilcar Cabral, nhà lãnh đạo cách mạng từ Guinea-Bissau, đã tuyên bố tại một cuộc họp báo bên lề Liên hoan Liên Phi lần đầu tiên được tổ chức tại Algiers vào năm 1969: ‘Hãy cầm bút lên và ghi lại điều này: người Hồi giáo hành hương đến Mecca, người Thiên chúa giáo đến Vatican và các phong trào giải phóng dân tộc đến Algiers!’ Tương tự, chúng ta cũng cần ghi nhớ rằng cuộc đấu tranh của Việt Nam chống lại chủ nghĩa đế quốc Mỹ vào những năm 1960 đã huy động được các phong trào tiến bộ trên toàn cầu và đã ảnh hưởng đến sự trỗi dậy của cuộc nổi dậy xã hội để dẫn đến các cuộc biểu tình năm 1968.

Chúng ta cần tập trung và hiểu rõ nhìn nhận của nhân dân thế giới về các cuộc đấu tranh của chúng ta, để giúp ta khắc phục và vượt qua những khó khăn và hạn chế của phong trào, từ đó thúc đẩy chủ nghĩa quốc tế cấp tiến để tăng cường tinh thần đoàn kết. Điều cốt yếu là chúng ta phải khai phá lại các di sản cách mạng của thế giới Ả Rập, Châu Phi, Châu Á, Mỹ Latinh và Nam bán cầu, được ghi nhận trong hành động và phát ngôn của những bộ óc vĩ đại như George Habash, Mahdi Amel, Frantz Fanon, Amilcar Cabral, Thomas Sankara, Walter Rodney, Ghassan Kanafani, Samir Amin, Che Guevara, Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông. Chúng ta cần tái thiết những chiến dịch đầy tham vọng của những năm 1960 nhằm giải phóng khỏi chế độ tư bản - đế quốc. Việc dựa vào những bài học từ di sản cách mạng, được truyền cảm hứng từ hy vọng kháng chiến và áp dụng quan điểm quốc tế của các cuộc cách mạng đó vào bối cảnh hiện tại là điều vô cùng quan trọng đối với Palestine nói riêng và các cuộc đấu tranh giải phóng khác trên khắp thế giới nói chung.

Trong phần kết của "Những người khốn cùng", Fanon đã viết:

Vậy thì, các đồng chí, tốt hơn là chúng ta nên ngay lập tức quyết định về việc thay đổi phương thức của mình. Ta phải thoát khỏi bóng tối nặng nề đã nhấn chìm mình và để nó lại phía sau. Ngày mới đang đến gần, ta cần phải thật vững vàng, thận trọng và quyết tâm... Chúng ta không nên lãng phí thời gian với những bài kinh cầu vô bổ và sự bắt chước đáng ghê tởm. Hãy rời khỏi châu Âu, nơi mà người ta không bao giờ ngừng nói về Con Người, nhưng lại giết người ở mọi nơi, thậm chí là ngay ở các góc phố nhà mình cũng như khắp mọi ngóc ngách trên hành tinh này... Thế nên, thưa các đồng chí, trò chơi của châu Âu nay đã đi đến hồi kết; chúng ta phải kiếm tìm một điều gì khác. Ngày hôm nay chúng ta có thể làm mọi điều mình muốn, miễn là chúng ta không bắt chước châu Âu, miễn là chúng ta không bị ám ảnh bởi mong muốn bắt kịp châu Âu... Vì châu Âu, vì chính chúng ta và vì nhân loại, các đồng chí ạ, chúng ta phải viết nên một trang sách mới, xây dựng những định nghĩa mới và cố gắng hình thành nên một nhân loại mới."

Theo đó, điều quan trọng là chúng ta cần phải tiếp tục nhiệm vụ xóa bỏ ách đô hộ và tách khỏi hệ thống tư bản-đế quốc, để khôi phục những bản sắc đã bị phủ nhận của chúng ta. Bằng việc kháng cự, chống lại tư duy chiếm đoạt và khai thác của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa tư bản, chúng ta sẽ tìm ra những các phương thức chống bá quyền. Đừng bỏ cuộc. Hãy là ‘một thế hệ trỗi dậy mạnh mẽ hơn từ đống tàn tro’. Hãy hành động giống như tinh thần của câu ngạn ngữ thân thuộc với nhiều người dân Hồi giáo, rằng: ta đấu tranh vì sự tiến bộ triệt để cho nhân loại một cách bền bỉ như thể sẽ mất cả đời để thực hiện được nó, nhưng cần chuẩn bị nền tảng cho nó như thể nó sẽ xảy ra vào ngay ngày mai.

Tại liên hoan Liên Phi Algiers năm 1969, các nhà cách mạng đã cất cao tiếng hát: ‘Đả đảo chủ nghĩa đế quốc, đả đảo chủ nghĩa thực dân!‘Chủ nghĩa thực dân, chúng ta phải chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng! Chủ nghĩa đế quốc, chúng ta phải chiến đấu vì thắng lợi cuối cùng!’

Và ta có thể hát thêm rằng: ‘Từ song ra đến biển, Palestine nhất định sẽ được tự do!’

Các ý kiến ​​nêu trong bài viết này chỉ là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm hoặc lập trường của TNI.

Tài liệu tham khảo

Abbas, F. (1962) Guerre et Révolution I: La Nuit Coloniale. Paris: Julliard.

Alleg, H. (1958) La Question. Paris: Éditions de Minuit.

Amin, S. (1970) The Maghreb in the Modern World. Harmondsworth: Penguin.

Ayache, G. (1990) Les Origines de la Guerre du Rif. Rabat: EMER.

Ben Khedda, B. (1989) Les Origines du 1er Novembre 1954. Algiers: Éditions Dahlab.

Bennoune, M. (1988) The Making of Contemporary Algeria, 1830–1987: Colonial upheavals and post-independence development. Cambridge: Cambridge University Press.

Boumaza, Z. (2015) ‘The West and Pan-Arab Nationalism: The Case of Djamal Abdel Nasser, Houari Boumediene and Saddam Hussein’. Dissertation, Badji Mokhtar-Annaba University, Faculty of Letters, Social and Human Sciences, Department of English. 

Bourdieu, P. and Sayad, A. (1964) Le Déracinement: la crise de l’agriculture traditionnelle en Algérie. Paris: Les Editions de Minuit.

Césaire, A. (2000) Discourse on Colonialism. New York: Monthly Review Press.

Dang, H. (2024) ‘Gaza war evokes Vietnam's own struggle, past unity with Palestine’, 30 March. https://www.aljazeera.com/features/longform/2024/3/30/gaza-war-reminds-vietnam-of-liberation-struggle-once-shared-with-palestine

Daoud, Z. (1999) Abdelkrim: Une épopée de sang. Paris: Séguier Editions.

Davis, D. (2007) Resurrecting the Granary of Rome: Environmental History and French Colonial Expansion in North Africa. Athens: Ohio University Press.

Deffarge, C. & Troeller, G. (1972) ‘Alger, capitale des révolutionnaires en exil’, August. https://www.monde-diplomatique.fr/mav/121/DEFFARGE/47325

Delanoë, N. (2002) Poussières d'Empire. Paris: Presses Universitaires de France.

Drif, Z. (2017) Inside the Battle for Algiers: Memoir of a Woman Freedom Fighter. Washington DC: Just World Books.

Evans, M. and Phillips, J. (2007) Algeria: Anger of the Dispossessed. New Haven, Conn: Yale University Press

Fanon, F. (1967) The Wretched of the Earth. London: Penguin Books.

Fisk, R. (2005) The Great War for Civilisation: The conquest of the Middle East. London: Fourth Estate.

Goscha, C. (2022) The Road to Dien Bien Phu. New Jersey: Princeton Press.

Gresh, A. (2012) ‘Utopie’, February. https://www.monde-diplomatique.fr/mav/121/GRESH/47243

Gresh, A. (2023) ‘Barbares et civilisés’, Novembre. https://www.monde-diplomatique.fr/2023/11/GRESH/66250

Harbi, M. (2024) FLN: Mirage et réalité. Paris: Syllepse.

James, C.L.R. (2001) The Black Jacobins: Toussaint L'Ouverture and the San Domingo revolution. London: Penguin Books.

Kanafani, G. (2023) The 1936–39 Revolt in Palestine. New York: 1804 Books.

Lacheraf, M. (1965) Algérie, Nation et Société. Algiers: Casbah-Editions.

Mandela, N. (1994) Long Walk to Freedom. Essex: Abacus.

McDougall, J. (2006) History and the Culture of Nationalism in Algeria. Cambridge: Cambridge University Press.

Meaney, T. (2024) ‘The Winning Side’, 10 May. https://newleftreview.org/sidecar/posts/the-winning-side

Minh, H. C. (1967) On Revolution: Selected Writings, 1920–1966. New York: Signet Books

Pappé, I. (2024) ‘The Collapse of Zionism’, 21 June. https://newleftreview.org/sidecar/posts/the-collapse-of-zionism

Rodney, W. (1969) The Groundings with My Brothers. London: L’Ouverture Publications.

Ruscio, A. (2004) ‘Le Valmy des peuples colonisés’, July. https://www.monde-diplomatique.fr/2004/07/RUSCIO/11315

Saaf, A. (1996) Histoire d’Anh Ma. Paris: L’Harmattan.

Stora, B. (2004) Histoire de la Guerre d’Algérie 1954–1962. Paris: La Découverte

Zedong, M. (1953) Report on an Investigation of the Peasant Movement in Hunan. Peking: Foreign Languages Press.

Zedong, M. (1967) Selected Works of Mao Tse-tung: Vol. II. Beijing: Foreign Languages Press.